Kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sỹ (27/7/1947 - 27/7/2023) Tư tưởng Hồ Chí Minh về Thương Binh, gia đình Liệt sỹ
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bác Hồ kính yêu của chúng ta là một nhân cách lớn về lòng nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực vì con người. Bác luôn quan tâm đến tất cả mọi người thuộc mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, mọi giới, mọi thành phần dân tộc, tôn giáo… Đặc biệt, trong suốt 24 năm trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, Bác đã giành sự quan tâm đặc biệt đến Thương binh - Liệt sỹ là những người đã cống hiến xương máu, hy sinh tính mạng để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc của Nhân dân.
Bác Hồ thăm các thương binh nặng ở trại điều dưỡng Bắc Ninh. Ảnh Tư liệu |
Trong lời dặn lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình, Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực, cánh sinh”.
Đối với các Liệt sỹ, mỗi địa phương cần phải xây dựng vườn hoa và bia tưởng niệm để ghi công sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho Nhân dân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con của thương binh và liệt sỹ, mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương, nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.
Là người lãnh đạo Đảng, lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấu hiểu và đánh giá cao những hy sinh, mất mát của các thương binh, liệt sỹ và thân nhân gia đình của họ trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân. Ngay từ năm 1946, giữa lúc bộn bề công việc của những ngày tháng đang từng bước chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm; nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giành nhiều tình cảm cho Thương binh - Liệt sỹ và đã ra thông báo về việc nhận con các liệt sỹ làm con nuôi với một tấm lòng thành kính “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những liệt sỹ đã hy sinh tính mệnh của mình cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thờì kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sỹ đó và tôi nhận con các liệt sỹ làm con nuôi của tôi”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người luôn khát khao hoà bình, khát khao “độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi”. Người quan niệm chiến thắng mà không cần phải đổ máu là tốt nhất, song khi thực dân Pháp cố tình gây chiến, thì toàn dân đều ra trận, “Toàn quốc kháng chiến” theo lời hiệu triệu vang dậy núi sông của Người. Có chiến tranh là có đầu rơi, máu chảy và trong cuộc chiến tranh Việt - Pháp năm xưa, đã có biết bao người con của dân tộc Việt Nam đã bỏ lại một phần thân thể ở chiến trường hoặc hy sinh cả tính mệnh của mình. Máu đào của họ đã hoà cùng non sông, gấm vóc và họ đã “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cảm động trước sự hy sinh cao cả của những người con yêu quý đó, khi nhận được tin con trai bác sỹ Vũ Đình Tụng hy sinh (01/1947), Người đã viết thư gửi người cha khi vừa mất đứa con yêu của mình: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên, thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ hy sinh cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam”.
Tháng 6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị chọn một ngày trong năm làm ngày “Thương binh - Liệt sỹ”. Sau đó, tại Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, ngày 27/7/1947 được gọi là “Ngày Thương binh”. Năm 1955, “Ngày Thương binh” được đổi thành “Ngày Thương binh - Liệt sỹ”. Ý nghĩa của ngày 27/7 hàng năm là ngày để toàn dân tộc ta thực hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”. Trong thư gửi Ban Thường trực tổ chức ngày thương binh toàn quốc đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.
Từ đó, ngày 27/7 hàng năm đã trở thành ngày có ý nghĩa lịch sử, chính trị, xã hội nhân văn sâu sắc, một nét đẹp của đời sống văn hoá Việt: “Ngày 27/7 hằng năm là một ngày kỷ niệm. Mỗi năm đến ngày ấy thì những người ái quốc Việt Nam càng tưởng nhớ đến anh em thương binh, bệnh binh, tưởng nhớ đến các gia đình liệt sỹ, tưởng nhớ đến những người anh hùng vô danh, hoặc đã hy sinh tính mệnh, hoặc đã đóng góp một phần xương máu trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta”.
Từ năm 1947 cho đến khi qua đời 1969, cứ đến tháng 7 hàng năm, dù bận trăm công nghìn việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không quên gửi thư thăm hỏi động viên thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ. Trong những bức thư đầy ân tình đó, Hồ Chí Minh luôn khẳng định công lao và sự đóng góp to lớn của các liệt sỹ, thương binh, đồng thời chia sẻ với thương binh, bệnh binh, với thân nhân thương binh, gia đình liệt sỹ những tình cảm sâu nặng của Người. Cũng từ tình cảm và trách nhiệm của mình vào dịp 27/7 hàng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở Đảng, Chính phủ và Nhân dân nâng cao trách nhiệm hơn nữa đối với công tác “Đền ơn đáp nghĩa”. Theo Người, ý nghĩa sâu sắc của công tác này là sự trân trọng, biết ơn đối với những người có công với độc lập, tự do của Tổ quốc, chứ không phải là sự gia ơn, làm phúc. Vì vậy, “bổn phận chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”.
Để công tác đền ơn đáp nghĩa trở thành phong trào quần chúng sâu rộng, có ý nghĩa thiết thực; ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20 về chế độ “Hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sỹ”; ngày 03/10/1947, Người ký Sắc lệnh số 101 thành lập Sở, Ty Thương binh, cựu binh ở khu, tỉnh và đến ngày 16/12/1952, Người ký Sắc lệnh số 129 đặt ra Bằng “Bảng vàng danh dự” và “Bằng Gia đình vẻ vang” để thưởng cho các gia đình chiến sỹ có nhiều người tòng quân hoặc hy sinh trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Người cũng nhấn mạnh rằng, muốn làm tốt công việc “Đền ơn đáp nghĩa”, một mặt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải trân trọng, biết ơn đối với thương binh, gia đình liệt sỹ, mặt khác, anh em thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sỹ cũng không được tự ty, công thần, ỷ lại, mà phải phát huy truyền thống, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, vượt lên khó khăn để tiếp tục sống và cống hiến cho xã hội. Người chân thành động viên thương binh, bệnh binh “Các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương cũng như các đồng chí đã làm người chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận, để mỗi người thương binh tàn, nhưng không phế”.
Không chỉ viết thư động viên, chia sẻ nhân ngày 27/7 hàng năm, ngày 31/12/1954, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, khi cùng Trung ương Đảng và Chính phủ trở về Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vòng hoa viếng các liệt sỹ tại Đài liệt sỹ Hà Nội. Trong lời điếu, Người viết: “Ngày mai là năm mới, là ngày đồng bào và bộ đội mừng Chính phủ về Thủ đô. Trong lúc cả nước vui mừng, thì mọi người đều thương tiếc các liệt sỹ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Bác thay mặt Nhân dân, Chính phủ và bộ đội, kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sỹ”.
Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn viết nhiều bài tuyên truyền, ca ngợi chiến công của các liệt sỹ. Với bút danh Chiến sĩ, Người viết bài Thanh niên anh hùng Lý Tự Trọng đăng báo Nhân dân, ngày 26/3/1964 và trong bức ảnh chụp liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi tại pháp trường trước lúc hy sinh. Người viết: “Vì Tổ quốc, vì Nhân dân, liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi đã anh dũng đấu tranh với kẻ thù đến hơi thở cuối cùng. Chí khí lẫm liệt của Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi là một tấm gương cách mạng sáng ngời cho mọi người yêu nước, nhất là cho các cháu thanh niên học tập”.
Tiếp tục phát huy truyền thống đạo lý tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc, thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác thương binh, liệt sỹ, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện về công ăn, việc làm, mở các lớp dạy nghề thích hợp,... cho từng đối tượng con em thương binh và thân nhân gia đình liệt sỹ... chính là để đền đáp phần nào những mất mát, đau thương của thương binh, liệt sỹ. Ban hành Pháp lệnh quy định về danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; Ưu đãi những người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng, đặc biệt các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa” như: xây dựng nhà tình nghĩa; Quỹ đền ơn đáp nghĩa, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa; phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng; chăm sóc bà mẹ liệt sỹ già yếu cô đơn và con liệt sỹ mồ côi; đỡ đầu con liệt sỹ; tổ chức tìm kiếm, quy tập mộ liệt sỹ; tu sửa, nâng cấp, quản lý tốt các nghĩa trang liệt sỹ, đài tưởng niệm, kỷ niệm, bia ghi tên liệt sỹ... là những việc làm thiết thực mang đậm tính nhân văn sâu sắc và cao cả.
Nhân dịp kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sỹ (27/7/1947-27/7/2023), làm tốt công tác “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” không chỉ là thực hiện lời căn dặn của Hồ Chí Minh về đạo lý, về giáo dục truyền thống của dân tộc, mà còn góp phần xây dựng và củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Hơn cả mọi lời nói, đó chính là thiết thực làm cho thương binh, gia đình liệt sỹ được yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần, đóng góp sức mình cho sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ và văn minh trong thời kỳ đổi mới và hội nhập Quốc tế./.
Nguyễn Đăng Bình