77 năm Đồng bào các dân tộc tỉnh Kon Tum thực hiện lời dạy của Bác Hồ, đoàn kết chiến đấu, bảo vệ và xây dựng tỉnh nhà ngày càng giàu đẹp
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền Nhân dân còn non trẻ, thực dân Pháp đã quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Đánh chiếm đến đâu là chúng cướp bóc, chém giết, bắt phu, bắt lính và thực hiện những thủ đoạn chia rẽ các tôn giáo, các dân tộc, tạo ra sự kỳ thị giữa người Kinh với người Thượng đến đó.
Trước tình hình đó, tại Tây Nguyên, Ban vận động Quốc dân thiểu số và Phòng Quốc dân miền núi các tỉnh thuộc Khu V, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu uỷ; Ngày 19/4/1946, tại Pleiku, tỉnh Gia Lai đã tiến hành Đại hội các dân tộc thiểu số (DTTS) Miền Nam với hơn 400 đại biểu tham dự. Đại hội vinh dự đón nhận Thư chúc mừng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Bức thư ngắn, gọn, lời thư mộc mạc, dễ hiểu, song chứa đựng những nội dung cực kỳ sâu sắc:
“Cùng đồng bào dân tộc thiểu số!
Hôm nay đồng bào khai hội, sum họp một nhà thật là vui vẻ. Tiếc vì đường sá xa xôi, tôi không đến dự được. Tôi tuy xa, nhưng lòng tôi và Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào. Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau…”
77 năm qua, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân các dân tộc tỉnh Kon Tum đã thể hiện tình đoàn kết gắn bó keo sơn, đoàn kết các dân tộc, sát cánh cùng nhau chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù đói cơm, lạc muối, phải ăn sắn, bắp, măng rừng thay cơm… Nhưng đồng bào các dân tộc Kon Tum đã một lòng một dạ theo Đảng, theo Bác Hồ với tinh thần “Thà hy sinh tất cả, chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, quyết tâm giành độc lập tự do cho Tổ quốc, giải phóng dân tộc. Nhiều thế hệ các dân dân tộc Kon Tum đã đứng lên đấu tranh chống kẻ thù xâm lược để giữ đất, giữ làng, bảo vệ những nét văn hoá truyền thống của dân tộc, không cho kẻ địch ngoại lai, đồng hoá.
Nhiều cán bộ người Kinh ở đồng bằng, thực hiện lời kêu gọi của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã rời bỏ gia đình, quê hương, dành tuổi thanh xuân của mình đến với đồng bào các dân tộc Kon Tum cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói chung tiếng nói của đồng bào các DTTS, được đồng bào yêu thương, đùm bọc, nhường cơm, xẻ áo, chăm sóc, nuôi giấu, cùng đồng bào các dân tộc trong tỉnh chiến đấu chống giặc ngoại xâm giải phóng Kon Tum, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Trong số những người tiêu biểu đó, phải kể đến các đồng chí như: Nguyễn Liên, Trần Kiên, Phan Phụ, Nguyễn Huề, Trần Thanh Dân, Nguyễn Phùng, Phan Vững, Phạm Trọng, Trần Văn Ba, Trương Quang Hoa, Anh hùng Ngô Miên, Anh hùng Trần Dũng, Anh hùng A Xâu, Anh hùng Thanh Minh Tám… và còn nhiều đồng chí khác đã sát cánh cùng đồng bào chiến đấu chống giặc ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc, hưởng ứng các cuộc vận động ủng hộ kháng chiến như: “Tuần lễ vàng”, “Hủ gạo kháng chiến”, “Nuôi heo kháng chiến”, “Làm rẫy kháng chiến”… Đồng bào các dân tộc ở tỉnh Kon Tum đã đóng góp hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm để nuôi cán bộ, nuôi quân và hàng ngàn ngày công lao động để mở đường, tải thương, tải đạn, phục vụ chiến đấu…
Tư tưởng của Bác Hồ đã đến với Kon Tum soi đường cho Nhân dân các dân tộc trong tỉnh đứng lên theo Đảng làm cách mạng. Từ phong trào yêu nước đấu tranh tự phát đến tự giác, các căn cứ địa kháng chiến, các khu du kích liên hoàn của đồng bào các dân tộc Kon Tum lần lượt ra đời. Lực lượng dân quân, du kích, bộ đội địa phương dần dần được hình thành và lớn mạnh. Cùng với phong trào che chở, bảo vệ, nuôi giấu cán bộ, bộ đội người Kinh và các lực lượng kháng chiến, phong trào tự tạo những vũ khí thô sơ để đánh địch như: cung tên, bẫy đá… phát triển mạnh ở khắp các bản, làng trong tỉnh, đã làm cho kẻ thù khiếp sợ, góp phần cùng với quân, dân cả nước chiến đấu anh dũng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử chấn động địa cầu, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là thắng lợi của tinh thần yêu nước, đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là tiền đề thế và lực mới cho Đảng và Nhân dân các dân tộc tỉnh Kon Tum phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với một kẻ thù xâm lược mạnh và tàn bạo hơn nhiều.
Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nước ta tạm thời chia cắt hai miền, miền Bắc đi lên CNXH; miền Nam còn ở dưới gót giày của đế quốc và tay sai, đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược bằng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hoá chiến tranh” dã man nhất của thế kỷ 20, hòng đè bẹp ý chí của cả dân tộc Việt Nam, một dân tộc yêu chuộng hoà bình, khát vọng độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Hơn lúc nào hết, người dân Kon Tum đã nhận thức rõ trách nhiệm của mình, quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược để giành độc lập tự do cho dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Qua cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng bào các dân tộc Kon Tum đã thể hiện tình đoàn kết gắn bó keo sơn giữa các dân tộc, đoàn kết trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam; giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, truyền thống cách mạng, liên tiếp tiến hành các hình thức đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán nước, vượt qua khó khăn, thách thức, không ngại gian khổ, hy sinh, đồng bào các dân tộc tỉnh Kon Tum một lòng, một dạ tin Đảng, Bác Hồ, kề vai, sát cánh, cùng nhau chiến đấu và lập nên những chiến công oanh liệt, vang dội gắn với tên núi, tên rừng, tên sông trên khắp các chiến trường Kon Tum như Măng Đen, Măng Bút, Đăk Sút, Đăk Tô - Tân Cảnh... góp phần cùng với quân và dân cả nước làm nên những chiến công vang dội, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào, giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước, giang sơn thu về một mối, đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thành quả đó thể hiện tấm lòng của đồng bào các dân tộc Kon Tum luôn thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “… Giang sơn và Chính phủ là Giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt…”
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, cùng với cả nước, Kon Tum đi lên xây dựng CNXH, điểm xuất phát thấp, kinh tế hầu như không có gì. Song dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng bộ, chính quyền các cấp, Nhân dân các dân tộc tỉnh Kon Tum đã vượt qua khó khăn, gian khổ, vững bước đi lên xây dựng quê hương Kon Tum từng bước phát triển, diện mạo nông thôn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS ngày càng thay da đổi thịt, đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân các dân tộc được cải thiện; Nhân dân ngày càng tin tưởng hơn vào công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
48 năm qua, nhờ sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, sự cần cù chịu thương, chịu khó trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế trên chính những mãnh vườn, thửa ruộng của mình, đến nay đời sống của đồng bào các dân tộc trong tỉnh đã được cải thiện và nâng lên đáng kể, diện mạo nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS ngày càng thay đổi rõ nét. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, đồng bào các dân tộc tỉnh nhà, người chủ của núi rừng Tây Nguyên đang ra sức lao động quên mình để biến vùng đất Kon Tum khói lửa năm nào, trở thành vùng đất giàu, đẹp, trù phú, tạo ra nhiều của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, làm giàu cho gia đình và xã hội.
Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi được bà con tích cực hưởng ứng. Gắn với với các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động như cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”; Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; Cuộc vận động “Làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm của đồng bào DTTS, làm cho đồng bào DTTS vươn lên thoát nghèo bền vững” đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận đồng bào các dân tộc trong tỉnh được cải thiện, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS đặc biệt khó khăn, đó chính là nhờ sự phấn đấu kiên cường và bền bỉ của đồng bào các dân tộc trong tỉnh trong suốt 77 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lời căn dặn trong thư của Bác Hồ năm 1946./.
Bài, ảnh: Nguyễn Đăng Bình